VN88 VN88

27 án oan trong các triều đại Trung Quốc

4. Sách viết chưa xong hoạ chết người đã đến

Vụ án Minh sử Trang Đình Long qua đi đã được gần 50 năm, người đời sau chấn động của vụ án mới vừa trấn tĩnh trở lại thì lại phát sinh ra vụ án văn tự khác. Vụ này liên quan đến Phương Hiếu Tiêu. Đới Danh Thế và toàn bộ người thân của họ. Thời gian vụ án càng dài, phạm vi những kẻ liên luỵ càng rộng.

Phương Hiếu Tiêu (không rõ năm sinh, năm chết) còn có tên là Phương Huyên Thành, tự là Hiếu Tiêu, vì tránh kỵ huý tên vua Khang Hy bèn đổi tự làm tên, lại còn lấy hiệu là Lâm Cương những năm Thuận Trị, ông thi đỗ tiến sĩ được cử làm Thị Độc học sĩ. Năm Thuận Trị thứ 11(1654) được làm mưu sĩ cho nhà vua. Vua Thuận Trị rất trọng dụng Phương Hiếu Tiêu, thường tôn dùng biệt danh Lâm Cương để gọi tên ông. Vua Thuận Trị thậm chí còn nói rằng: “Phương học sĩ tính tình cương trực, có thể làm được Thượng thư Bộ lại”.

Năm Thuận Trị thứ 14 (1657), trong kỳ thi hương, Phương Du là ngườì Đồng Thành được mời làm quan chủ khảo ở Giang Nam. Do tư lợi làm rối kỷ cương chấm thi, lấy đỗ bất công, làm cho sĩ tử ở đây vô cùng phẫn nộ. Trong đó con của Phương Củng Càn là đồng tông với ông ta, còn có cả người em trai thứ 5 của Phương Hiếu Tiêu là Phương Chương Thành được lấy đỗ càng làm cho họ thêm công phẫn.

Không lâu sau, Cấp sự trung âm Ứng Tíết dâng biểu tố cáo Phương Chương Thành thi đỗ, là do mua bán tư lợi. Vua Thuận Trị xem xong vô cùng tức giận bèn cách chức quan Chủ khảo Phương Du, Tiền Khai Tôn và toàn bộ nhóm các quan đồng khảo. Lại ra lệnh bắt Phương Chương Thành về kinh trị tội, đồng thời lệnh cưỡng chế Phương Củng Càn phải thú thật quá trình xấu xa đút lót trong thi cử. Phương Củng Càn tâu lại phủ nhận việc mua bán trong thi cử và những lời chỉ trích vừa qua. Tuy vậy vua Thuận Trị vẫn không tin.

Tháng 3 năm Thuận Trị thứ 15 (1658) Vua Thuận Trị sát hạch lại số cử nhân do Phương Du chấm thi đỗ. Tổng số chấm đỗ có 75 người, tạm thời công nhận 24 người đủ tư cách, xoá tên 14 người. Không lâu sau với tội danh “mua bán thi cử làm rối kỷ cương”, các quan Chủ khảo Phương Du, Tiền Khai Tôn bị chém đầu, còn các quan đồng khảo bị xử tội treo cổ. Phương Chương Thành và 8 người khác bị phạt đánh 40 gậy trước công đường, tịch thu gia sản, cả nhà phải lưư đầy đi Ninh Cổ Tháp. Phương Hiếu Tiêu cũng bị lưu đày theo.

Khi Khang Hy lên ngôi ra lệnh đại xá thiên hạ, cha con Phương Hiếu Tiêu cũng được đại xá trở vê quê.

Năm Khang Hy thứ 12 (1673) Phương Hiếu Tiêu có người bạn thân làm quan trong phủ Quý Dương, Phương Hiếu Tiêu vốn có ý định đi du ngoạn ở vùng Vân Quý, nhân cơ hội này xuống phía Nam, phần có thể chiêm ngưỡng danh lam thắng cảnh, lĩnh hội nhân tình thế thái, đồng thời muốn gặp lại được bạn thân cũ lại có nơi tá túc, nhờ vả. Nhưng khi ông đến, lại không may vừa lúc Bình Tây Vương Ngô Tam Quế khởi binh chống lại nhà Thanh ở Vân Nam. Phương Hiếu Tiêu lại bị Ngô Tam Quế bắt tống giam vào ngục. Ở trong ngục, Phương Hiếu Tiêu giả bệnh si ngố và mê man chờ chết, nhân lúc lính coi ngục không chú ý, ông đã trốn chạy về quê

Lần ngao du này tuy gặp nhiều gian khổ, nhưng ông củng thu hoạch hiểu biết thêm được nhiều điều. Ông thu thập được không ít sử liệu về chính quyền Nam Minh Ngô Tam Quế (Quế Vương). Về nhà, ông viết luôn quyển “Điềm Kiềm ký văn” ghi chép lại tương đối tỉ mỉ chính sự của vương triều Tam Quế nhà Minh ở phương Nam.

Nghe nói có một số chỗ ông còn phóng bút viết cả niên hiệu “Vĩnh Linh” mà vương triều Tam Quế đã sử dụng. Sau khi Phương Hiếu Tiêu chết, quyển “Điềm Kiềm ký văn” là một phần của bộ sách “Thuần Trai văn tập” của Phương Hiếu Tiêu được tách ra in riêng nhưng người đương thời không chú ý đến.

Nhưng có một danh sĩ nổi tiếng ở Đồng Thành là Đới Danh Thế (1653-1713) đọc xong bộ sách này, đã chú ý đến sử liệu nhà Nam Minh nên đã tích cực hiệu đính lại. Khi phát hiện được một số ghi chép không đúng sự thật của quyển “Điềm Kiềm ký văn” ông quyết tâm đính chính lại sự thật lịch sử thời Nam Minh.

Sau đó, học trò của Đới Danh Thế là Xa Trạm tình cờ gặp một vị hoà thượng là Lê Tri, theo vị hoà thượng này nói thì ông ta từng làm quan trong triều đình và hầu hạ Quế vương Chu Do Lang.

Năm Vĩnh Lịch thứ 15 (Năm Thuận Trị thứ 18 nhà Thanh tức năm 1661), Quế Vương bị Ngô Tam Quế hại, ông ta chạy khỏi cung đình, lang bạt rồi trở thành nhà sư đi chu du thiên hạ. Xa Trạm chịu ảnh hưởng của Đới Danh Thế cũng chú ý đến thu thập sử liệu triều Minh bèn hỏi han về sự thật lịch sử thời Quế Vương. Sau đó Xa Trạm báo lại với Đới Danh Thế, Đới Danh Thế nghe xong càng hứng khởi quyết tâm tự mình tìm hiểu sự thật qua Lê Tri. Nhưng Đới Danh Thế đã bị hụt hẫng vì Lê Tri đã lại đi chu du rồi khó mà gặp được. Thất vọng, Đới Danh Thế viết thư cho Xa Trạm nhờ Xa Trạm kể lại những gì đã nghe được qua Lê Tri gửi cho ông.

Không lâu sau, Xa Trạm chỉnh lý lại những gì Lê Tri đã nói rồi gửi cho Đới Danh Thế. Đới Danh Thế lấy tư liệu này của Lê Tri đối chiếu với tư liệu đã có trong sách “Điềm Kiềm ký văn” và phát hiện có không ít sự kiện đối chọi nhau nên không thể lựa chọn được. Thế rồi Đới Danh Thế lại viết thư cho Xa Trạm. Trong thư nói:

“Thuở trước, khi nhà Tống diệt vong, chỉ hoạt động ở một dải đảo nhỏ nhoi bên bờ dốc núi mà thời gian lại rất ngắn. Mặc dù vậy, sử sách vẫn ghi chép lại tương đối tỉ mỉ sự việe đã qua của nó. Sau khi nhà Minh diệt vong, vua Hoằng Quang xưng đế ở Nam Kinh, duy trì được một năm. Lang Vũ đế xưng vua tại Mâu Việt duy trì được một năm rưỡi mà vua Vĩnh Lịch (Tức Quốc vương Chu Do Lang) hoạt động được 30 năm ở vùng Lưỡng Quảng, chiếm một vùng đất hàng nghìn dặm vuông. Theo đại nghĩa “Xuân Thu” lẽ nào không được như Triệu Bính nhà Tống bên sườn núi xa? Nhưng do sử sách ghi chép thiếu sót nên một giai đoạn sự thật lịch sử này dần dần mai một, thất truyền đi.

Sau gần một năm, kiềm chế sáng tác văn chương của triều đình cũng dần dần được nới rộng, nhưng cũng còn rất nhiều chỗ phải né tránh kị huý, nên một số người biết rõ về sự thực lịch sử cuối thời nhà Minh có ghi chép lại nhưng không dám công khai, vì vậy những ghi chép tuy rất không toàn diện này, không có người thu thập chỉnh lý, để lâu về sau sẽ thành chim trời cá nước biết đâu mà tìm. Điều nừa là các lão tướng, binh sĩ, gia đình, cựu thần, tiện dân thời đó cũng dần chết đi, sẽ không cung cấp được tư liệu có thể tham khảo ghi chép lại. Cứ như thế nhừng người biết rõ sự thực lịch sử ngày một ít đi. Đến lúc đó thì những kinh nghiệm và bài học thành bại, được mất của lịch sử cũng như những sự tích của một số trung thần nghĩa sĩ đều không thể truyền lại cho hậu thế. Điều này khiến người ta phải than thở xót xa.

Thời đại nhà Minh suốt 300 năm không có Quốc sử, hồ sơ, tư liệu, thư tịch của triều đình cũng bị thất tán dần, mà bút tích dã sử lưu truyền thời đó lại đều khuyết tán không hoàn chỉnh hoặc bình luận cũng không đáng tin cậy. Ta tuy học vấn không có gì nhưng có chí muốn biên soạn rõ ràng, chính xác và thành công một bộ thông sử thời đại triều Minh. Nhưng ta lực mỏng, đơn độc, không thể thu thập tư liệu rộng rãi được, nên thường lo lắng không thể thực hiện được chí hướng của mình. Đến việc ghi chép lại lịch sử chính xác của một triều đại cũng không viết được thì lại càng khó để ghi chép lại sự thật lịch sử của các triều đại của nhà Nam Minh.

Trước đó không lâu, Hàn Lâm viện đã tới các châu huyện thu thập sách sử liên quan đến thời đại nhà Minh, nhưng từ sau thời Vạn Lịch, những sự thật liên quan của cuộc chiến tranh giữa hai nhà Minh, Thanh đều không dám trình tấu lên Vua. Các sử quan mới tập hợp thư mục, còn chưa hoàn chỉnh đã có rất nhiều bút ký dã sử có giá trị mà họ chưa biết. Vì vậy Hàn Lâm viện muốn biên tập một bộ Minh sử hoàn chỉnh thì thực tế rất khó khăn.

Ta đã nghiên cứu Minh sử từ lâu, nhưng ta đi hơi ít, hiểu biết thực tế còn nông cạn nhưng ta sẽ cố gắng hết sức mình. Túc hạ nếu biết được Lê Tri ở đâu thì đừng ngại cứ thay ta mời ông ta đến để ta có thể tìm hiểu kĩ thêm về sự thật lịch sử thời Quế Vương.

Xa Trạm sau khi nhận được thư của Đới Danh Thế liền hỏi dò khắp nơi tin tức về Lê Trị. Nhưng cuối cùng vẫn không tìm ra dấu vết. Vì thế Xa Trạm không mời được Lê Tri.

Đới Danh Thế vẫn còn có một học trò tên là Vưu Vân Ngạc, cũng thường ca ngợi văn bút của thầy, đến nay trước sau đã sao chép được hơn 100 bài văn chương của Đới Danh Thế. Năm Khang Hy thứ 41 (1702) Vưu Vân Ngạc đang định biên tập thêm những bản thảo đã thu thập được đế khắc in. Do Đới Danh Thế ở Nam Sơn Cương, bèn lấy tên sách là “Nam Sơn tập ngẫu sao” mọi người thường gọi tắt là “Nam Sơn tập”. Trong đó “Dữ Dư sinh thư” kể trên cũng được thu thập và ghi chép toàn văn. Sau khi “Nam Sơn tập” khắc in và dự định lưu hành. Đới Danh Thế rất phấn khởi, ông có nằm mơ cũng không nghĩ tới. Và cái gốc tai hoạ cũng ẩn dật từ đây.

Năm Khang Hy thứ 44 (1705) Đới Danh Thế đã 53 tuổi, ông tham gia thi Hương ở phủ Thuận Thiên và đã đỗ đạt. Bốn năm sau, lại tham gia thi Hội và đỗ đệ nhất danh cống sĩ. Khi thi Đình lại đỗ cao nhất Giáp đệ nhị danh tức bảng nhỡn và được phong chức Biên tu Hàn Lâm viện. Lúc đó, con của Tả Đô Ngự sử Triệu Thân Kiều là Triệu Hùng Chiêu lại đỗ Trạng nguyên, mọi người xôn sao bàn tán, nhiều người cho rằng Đới Danh Thế là người học rộng chắc sẽ lại chiếm đệ nhất danh và giành Trạng nguyên luôn. Ai ngờ người giành được Trạng nguyên lại là Triệu Hùng Chiêu người còn kém xa tài danh Đới Danh Thế. Trong kinh loan tin Triệu Thân Kiều mua bán thi cử, nhờ người giúp đỡ. Để dẹp đi dị nghị của mọi người và thay đổi cách nhìn nhận đó, vốn là người nổi tiếng về sự trừng trị người ngay nên Triệu Thân Kiều quỳết định trước hết phải khống chế, sau tiến tới tiêu diệt Đới Danh Thế bằng việc làm mờ ám lương tâm.

Năm Khang Hy thứ 50 (1711) Tả Đô Ngự sử Triệu Thân Kiều lấy cớ dùng quyển “Dữ Dư Sinh thư” trong “Nam Sơn tập” để dâng sớ tố cáo Đới Danh Thế, trong sớ tố cáo của Triệu Thân Kiều chỉ rõ:

“Biện Hàn Lâm viện Đới Danh Thế đã uổng phí văn tài, phóng túng ngông cuồng, bất cẩn. Trước đây, thời còn đi học, tự ý khắc văn tập khua môi múa mép, lẫn lộn phải trái, từ ngữ bội phần ngông cuồng, những lời hắn nói ra đều xa rời kinh thánh, phản lại đạo đức. Mục đích cuối cùng là tạo nên sách phản và trục lợi. Vì vậy những người có học đều cười chê sự viển vông của hắn. Bạn bè đồng liêu cũng chê trách sự lầm lẫn của hắn, thế mà hắn vẫn không biết để hối cải.

Hiện nay, Đới Danh Thế mang ân sâu của nhà Vua, đỗ cao, đạt bảng Nhỡn nhưng vẫn chưa nhận ra lỗi lầm của mình trước đây, huỷ bỏ sách vở, chấm dứt những hành động ngông cuồng. Con người như hắn sao có thể để cho ở nơi trong sạch như Hàn Lâm viện được? Thần và Đới Danh Thế vốn không có thù hận gì, nhưng sự liên quan đến phép nước, không dám che giấu. Vì vậy dâng sớ tố cáo. Kính mong Bệ hạ giao cho bộ Hình xét xử nghiêm khắc để sau này không còn những kẻ ngông cuồng bất kính nữa”.

Khang Hy tiếp biểu xong, giao ngay cho bộ Hình nhanh chóng tra xét. Đồng thời lệnh cho bộ Hình xét xong phải tấu lên ngay. Lúc này, một số người vốn vẫn oán hận Đới Danh Thế nhân cơ hội ném đá ném giấu tay, khiến Đới Danh Thế bị bắt ngay và bị thẩm vấn nghiêm khắc. Bộ Hình nhanh chóng làm rõ sự việc, qua qúa trình làm sách “Nam Sơn tập” cũng như tình hình chịu ảnh hưởng sách “Điềm Kiềm ký văn” của Phương Hiếu Tiêu đối với Đới Danh Thế. Thế là hai họ Phương Đới và tất cả những người tham gia in ấn, đề tựa sách “Nam Sơn tập” đều bị bắt giữ, mấy ngày sau, bộ Hình báo cáo kết quả thẩm vấn lên vua Khang Hy:

Trong tấu biểu, bộ Hình viết:

“Thông qua hình thẩm, Đới Danh Thế khai nhận “Khiết di lục” của “Nam Sơn tập” là do Phương Chính Ngọc khắc in, còn lại đều do Vưu Vân Ngạc. Các lời tựa là của Uông Cảnh, Phương Bao, Phương Chính Ngọc, Chu Thư, Vương Nguyên đều do họ tự viết. Lưu Nham không viết lời tựa. Trong “Dữ Dư sinh thư” có nói đến Phương Học Sĩ tức Phương Hiếu Tiêu. Ông ta đã dùng niên hiệu “Vĩnh Lịch” trong “Điềm Kiềm ký văn”. Đới Danh Thế xem xong sách này đã dùng lại rất nhiều câu nói nghịch tử trong đó.

Xét trong “Nam Sơn tập” của Đới Danh Thế, hắn đã loại bỏ niên hiệu của bản triều mà lấy niên hiệu “Vĩnh Lạc”. Như vậy, Đới Danh Thế theo pháp luật phải chịu tội lăng trì, em hắn là Đới Bình Thế tội chém đầu còn ông cha, con cháu, chú bác, anh em tất cả đều phải tới bộ Hình và chịu tội chém đầu. Còn mẹ vợ, con, thê, thiếp, chị em, con cái của cô dì chú bác là nữ từ 15 tuổi trở lên đều phải đi hầu các quan đại thần khác.

Phương Hiếu Tiêu vốn tôn sùng các niên hiệu “Huyền Quang”, “Long Khánh” “Vĩnh Lịch” là kẻ đại nghịch bất đạo, theo vương pháp phải chịu tội lăng trì. Nhưng hắn đã chết vẫn phải quật mồ xé xác phân thây, chôn chung, tịch thu gia sản. Các con hắn là Phương Doãn Phong, Phương Vân Lữ, Phương Thế Tiều đều xử tội chém đầu, những người trong dòng họ, bất kể đang ở thời kỳ chịu tang chỉ trừ số nữ nhi ngoại tộc còn tất cả phải lưu đày đi Hắc Long Giang. Lưu Nham cùng vợ con phải lưu đày xa 3000 dặm, khi tới nơi còn phải bị đánh phạt 40 gậy. Xa Trạm và một số người khác sau khi bắt được sẽ lại xử tiếp. Vương Nguyên, Chu Thư đã chết bệnh được miễn xử lý. Ngoài ra, cho đốt huỷ hết sách “Nam Sơn tập”, thông tư đi khắp các tỉnh đều phải khám xét nếu phát hiện thấy sách của Phương Hiếu Tiêu và Đới Danh Thế sáng tác thì đều phải huỷ bỏ”.

Căn cứ tấu biểu của bộ Hình, vua Khang Hy cho rằng vụ án quá nghiêm trọng, bèn triệu tập Cửu Khanh nghị án, đồng thời ra chiếu chỉ: Họ

Phương trong vụ án đều là một lũ phản loạn, Phương Quang Thêm đầu hàng theo Ngô Tam Quế làm nguỵ tướng, Phương Hiếu Tiêu cũng từng làm sứ giả cho Ngô Tam Quế. Dòng họ này quyết không thể để lại được.

Căn cứ vào ý chỉ của Vua, Hình bộ thượng thư và Hội nghị Cửu Khanh thảo luận, Cửu Khanh đưa ra ý kiến:

Phương Hiếu Tiêu mắc bệnh cuồng điên, đáng thương đã viết “sách nghịch” lại đến Đới Danh Thế cố tình vận dụng sai thêm rồi cho in ấn phát hành, lưu truyền. Trong sách có nhiều câu chữ ngông cuồng, bất chấp trung hiếu đại nghĩa. Đây là quốc pháp, Phạm vào tội trời đất khó dung phải xét xử trừng phạt nghiêm khắc.

Từ đó vụ án chỉ còn đợi vua Khang Hy phán quyết. Khang Hy xem xét căn cứ bộ Hình xét xử thì phải có hơn 300 người bị tội hình, như thế hình phạt quá nặng, liên luỵ cũng qúa rộng. Không có lợi cho việc nhà Thanh đang mua chuộc lòng người, thế rồi mấy lần xuống chỉ khoan hồng giảm tội.

Năm Khang Hy thứ 52 (1713) ra quyết định cuối cùng. Xử chém Đới Danh Thế, phạt lưu đày hai họ Phương, Đới buộc đi Hắc Long Giang, những người như Vưu Vân Ngạc, Phương Bao… bị giam vào Bát kỳ, còn lại các quan không được bàn tán gì nữa. Việc xử lần này so với vụ án Trang Đình Long cách đây 50 năm thì đã rộng lượng hơn nhiều. Đây có thể do những năm cuối đời Khang Hy, chính sự nhà Thanh sáng suốt, xã hội ổn định, có liên quan đến đại cục sự ổn định thống trị của triều đình nhà Thanh. Trong tình thế như vậy cũng không cần phải giết chóc để thị uy nữa.

Đới Danh Thế có ý chí muốn viết được một bộ Minh sử nhưng lại sai lầm về thời cơ, trong qúa trình thu thập tư liệu và ghi chép lịch sử đã đưa ra một số sự kiện mạo phạm đến những huý kị của nhà Thanh nên bản thân bị giết lại còn liên luỵ đến nhiều người bất hạnh khác. Sách viết chưa thành mà đã chịu đại hoạ như vậy thật là một vụ án oan hiếm thấy.
5. 92 oan tội bị bức tử

“Tứ tử” là loại hình phạt đặc biệt của xã hội phong kiến Trung Quốc, là sự thể hiện của đạo đức, luân lý phong kiến “Vua bảo thần chết thì thần phải chét”. Thế mà đã có bao nhiêu công thần lương tướng bị xử tội “Tứ tử”? Vào thời Ung Chính nhà Thanh, Niên Canh Nghiêu bí khép tội “tứ tử” rồi tự sát chết. Ông chính là đại biểu cho việc bị giết oan của một đại thần khi lập nhiều công lao lấn át cả Minh chủ.

Niên Canh Nghiêu (? – 1726) tự là Lượng Công, hiệu là Song Phong xuất thân trong một gia đình quan lại, cha làm tuần phủ Hồ Bắc. Năm Khang Hy thứ 39 (1700) Niên Canh Nghiêu đỗ tiến sĩ được cử làm Thứ Cát sĩ. Sau thuyên chuyển làm Hàn lâm kiểm thảo, ông rất giỏi văn và đã được làm Chủ khảo thi Hương của hai tỉnh Tứ Xuyên và Quảng Đông, rồi lại chuyển làm Nội các học sĩ.

Năm Khang Hy thứ 48 (1709) Niên Canh Nghiêu được thăng làm tuần phủ Tứ Xuyên, năm Khang Hy thứ 56 (1717) Cát Nhĩ Đan Điệt kích động A Thích Bố Thản phản loạn, giết chết Lạp Tàng Hãn Đề đốc Tứ Xuyên, Khang Thái dẫn quân đi dẹp. Nhưng trên đường đi binh sĩ lại bất ngờ nổi loạn, Khang Thái đành phải rút về. Niên Canh Nghiêu biết được, một mặt sai Tham tướng Dương Tận Tín phủ dụ trấn an binh sĩ, mặt khác mật báo về triều đình. Đồng thời xin được tự mình đến Tùng Phạm giải quyết việc này. Vua Khang Hy khen ngợi Niên Canh Nghiêu tận tâm làm việc, rồi phái Đô thống Pháp La dẫn binh vào Tứ Xuyên giúp ông dẹp phản loạn. Tháng 6 năm Khang Hy thứ hai, do Tuần phủ không có quyền sử dụng binh lính mà ở Tứ Xuyên việc quân lại rất quan trọng nên đã thăng chức cho Niên Canh Nghiêu làm Tổng Đốc Tứ Xuyên kiêm việc Tuần phủ đốc quân Tứ Xuyên vào Tây Tạng dẹp loạn. Năm Khang Hy thứ 59 (1720) Niên Canh Nghiêu được thụ phong chức Định tây tướng quân rồi cùng với Bình nghịnh tướng quân Diên Tín hợp quân cùng nhau dẹp loạn. Năm sau Niên Canh Nghiêu vào chầu Vua. và lại được giữ chức Tổng đốc Tứ Xuyên, Thiểm Tây, lại ban thưởng cho cung tên và nhiều vật phẩm khác.

Niên Canh Nghiêu trên cương vị Tổng đốc Tứ Xuyên, Thiểm Tây đã nhiều lần đề xuất kế sách củng cố biên thuỳ. Năm Khang Hy thứ 60 (1721), Quách La Khắc ở Thanh Hải đã nhiều lần cướp bóc, nhũng nhiễu biên thuỳ, Vua Khang Hy ra lệnh cho Niên Canh Nghiêu quan sát tình hình và tìm ra kế sách chinh phạt. Niên Canh Nghiêu phân tích tình hình biên cương và đề xuất kế hoạch, ông nói: “Sào huyệt của Quách La Khắc có ba chỗ hiểm yếu đều có vách đá hiểm trở, khó có thể công thủ. Dùng binh đối với loại địa hình này nên dùng bộ binh, không dùng được kỵ binh. Nếu dùng đại quân tiến đánh thì Quách La Khắc chỉ nghe tin đã ngầm chuẩn bị phòng ngự, chi bằng lấy cách dùng Phiên đánh Phiên. Thần vốn đã biết rõ các thủ tự như Ngoã Tư, Tạp Cốc đang rất hận Quách La Khắc đã cướp phá khắp nơi nên mong muốn được ra quân giúp sức. Vì vậy cần phai điều Đô đốc Nhạc Trung Kỳ dẫn quân vào Tùng Phạm đốc thúc quân sĩ giết giặc”.

Vua Khang Hy ủng hộ kế hoạch của Niên Canh Nghiêu. Tháng 12 Nhạc Trung Kỳ thống lĩnh quân sĩ đánh bại hàng ngàn quân mai phục của Quách La Khắc, đánh phá hơn 40 trại quân Phiên, chém chết hơn 300 tên, bắt sống tướng giặc, hàng phục quân sĩ.

Khi vua Ung Chính lên ngôi, do có công giúp Ung Chính kế vị, nên năm Ung Chính Nguyên niên (1723) Niên Canh Nghiêu được phong chức Phủ viễn Đại tướng quân, chỉ huy việc quân vùng Tây Bắc, lúc đó triều đình ra lệnh giải tán quân Thanh đóng ở vùng Tây Tạng. Niên Canh Nghiêu đề xuất 8 điều kiến nghị để giải quyết tốt việc rút quân khỏi Tây Tạng. Sau khi xem xét, bộ Binh hoàn toàn đồng ý với kiến nghị của Niên Canh Nghiêu.

Tháng 8 năm Ung Chính Nguyên niên (1723), La Bộc Tạng Đan ở Thanh Hải lại phản loạn, xâm lấn cướp bóc các chư bộ ở Thanh Hải. Tháng 10 Niên Canh Nghiêu tự dẫn quân từ Cam Châu đến Tây Ninh để dẹp loạn. Niên Canh Nghiêu điều binh khiển tướng, chỉ huy hợp lý, tiến thoái đúng thời cơ nên đến năm sau thì dẹp xong bọn phản loạn. Sau này Niên Canh Nghiêu lại dâng sớ đề xuất 8 điều kiến nghị. Mục đích nhằm tăng cường sự thống trị của Nhà Thanh đối với các vùng Thanh Hải, Cam Túc, Tân Cương v.v… Đồng thời tổ chức đồn điền, khai hoang vùng Tây Bắc biên cương. Ít lâu sau, Niên Canh Nghiêu.lại đề xuất 13 điều kiến nghị sau khi làm xong việc ở Thanh Hải.

Vua Uông Chính xem xong tấu biểu vô cùng phấn khởi nói: “Từ khi phản tặc La Bộc Tạng Đan bội bạc, vứt bỏ ân nghĩa của nhà vua, tụ tập đồng bọn xâm phạm biên cương, trẫm đã lệnh cho Niên Canh Nghiêu chọn thời lựa thế chỉ huy tướng sĩ, quét sạch phản quân. Niên Canh Nghiêu làm việc hăng hái hết sức đã nhanh chóng báo tin thắng trận, nay lại đề xuất cách rút quân toàn vẹn, các phương châm kế sách. việc sắp xếp hợp tình hợp lý, chu đáo tl mỉ của ông ta, ta xem xong vô cùng phấn khởi”. Vì vậy đã ra lệnh làm theo kế sách của Niên Canh Nghiêu. Tháng 10 năm đó, Niên Canh Nghiêu yết kiến nhà Vua và được nhà Vua ban thưởng lông đuôi chim công có hình song nhãn (hai mắt), 4 bộ long bào phục, đai vàng, dây cương màu tím và vô số vàng bạc. Việc ban thưởng này vào thời kỳ đó là niềm vinh hạnh lớn của các quan lại.

Niên Canh Nghiêu dẹp yên vùng Tây Tạng đã lập nên công trạng rất lớn, đã nhiều lần được ban thưởng. Ông được phong là Nhất Đẳng công thần; hai người con cũng được phong Nhất Đẳng tử tước và Nhất Đẳng nam tước. Gia bộc nhà ông là Tang Thành Đỉnh cũng được làm Trực lệ thủ đạo. Nguỵ Tri Diệu cũng bình công, được giữ chức phó tướng.

Nhưng đây cũng không phải vì Niên Canh Nghiêu chỉ tín nhiệm và đề cử người thân. Căn cứ vào ghi chép của lịch sử thì Niên Canh Nghiêu dùng người rất sáng suốt.

Vào hai đời vua Khang Hy và Ung Chính, rất coi trọng sử trị, Vua Khang Hy mỗi lần phát hiện trong tấu biểu của các quan trong triều có câu chữ bịa đặt, a dua thì đều vô cùng tức giận. Đồng thời truyền dụ trong tấu biểu không được dùng nhũng từ xiểm nịnh. Vua Ung Chính nhiều lần khiển trách quan lại hủ bại, cho rằng trị thiên hạ lấy việc dùng người làm cơ bản. Lệnh cho các quan trong triều phải bảo vệ phát hiện tiến cử người hiền tài, đồng thời chủ trương tăng cường kiểm tra quan lại để thanh loại những quan chức không xứng đáng.

Về sau nghe nói Niên Canh Nghiêu trong hành doanh ở Tây Vực thường dùng người theo lợi ích cá nhân, nhưng Tư Lại bộ không biết vì lý do gì không tấu trình, nên rất tức giận và lệnh cho bộ Lại tra xét nghiêm túc. Nhưng thấy Niên Canh Nghiêu tiến cử toàn là những người có tài đức và đó chính là một trong những nguyên nhân giúp ông lập nên những chiến công. Ví dụ như năm Ung Chính Nguyên Niên(1723) khi ở Thanh Hải xảy ra phản loạn, Niên Canh Nghiêu đã dâng biểu tiến cử Đề đốc Tứ Xuyên Nhạc Trung Kỳ làm Tham tán đại thần. Nhạc Trung Kỳ là người trầm tính, cương nghị nhiều mưu lược lại chỉ huy tướng sĩ rất nghiêm và lại cùng đồng cam cộng khổ với binh sĩ. rất được lòng người, quân sĩ một lòng một dạ theo ông, ông ta đã nhiều lần lập công, đến đời vua Càn Long ông ta là một trong những vị tướng tài có nhiều công trạng to lớn. Lại như Hồ Kỳ Hằng là cử nhân đời vua Khang Hy năm thứ 44 (1705) từng làm Thông phán ở Biện Châu, vì có tài “Thông hiểu triều chương quốc chính, mẫn tiệp, văn võ song toàn” nên được Niên Canh Nghiêu ngưỡng mộ và được tiến cử làm Tri phủ Biện Châu, sau lại tín nhiệm làm Xuyên Đông đạo Thiểm Tây Bố chính sử Cũng như vậy, đối với những loại người không có tài cán gì, dù có là quan hệ thân thích gần gũi, Niên Canh Nghiêu cũng không bao giờ tuỳ tiện sử dụng. Khi Niên Canh Nghiêu ở vị trí là Phủ viễn Đại tướng quân thì có một người con của thầy giáo dạy ông từ thủa nhỏ là Uông Mỗ Nhân, anh ta vất vả trải qua ngàn dặm xa xôi để đến Thiểm Tây bái kiến Niên Canh Nghiêu, anh ta hy vọng sẽ được làm một chức quan nho để kiếm sống và nuôi gia đình. Khi con thầy Uông đến muốn vào tướng phủ nhưng vẫn chưa được gọi vào. Mãi hơn một tháng sau, anh ta mới được gọi đến, anh ta vào đến tướng phủ, trông thấy vệ binh giáo mác sáng lóe, sợ đến thót tim, mặt cắt không còn hạt máu. Khi nhìn thấy Niên Canh Nghiêu, anh ta vội vàng quỳ sụp xuống không nói lên lời. Niên Canh Nghiêu giận ra mặt, lạnh lùng quát mắng: “Ta đã sớm làm cho con của thày giáo ta kinh sợ hồn bay phách lạc mất rồi, giờ đây ta mới biết ngươi dung tục đến vậy thật là đã làm tổn thương đến kỳ vọng của thày ta rồi. Nhà ngươi lại không chịu ở nhà phụng dưỡng mẹ già mà lại đến cầu xin chút quan chức. Triều đình chọn người làm quan đâu có thể sư dụng được ngươi? Ta cũng không có tiền của gì để giúp ngươi đâu”. Sau đó Niên Canh Nghiêu cho vệ sĩ áp giải anh ta về quê.

Niên Canh Nghiêu không phải là người bạc bẽo vô tình, trước khi người con của thày giáo tới thì ông đã biết tin nên vội sai người đến tận quê anh ta nghe ngóng, tình hình được biết anh ta ngu đần, lỗ mãng, bất tài, không thể dùng được. Song nặng nghĩa thày trò, ông sai người đem một vạn lạng bạc đến biếu để vợ con thày được sung túc. Ngược lại ông còn cố ý ác khẩu với người con của thày giáo đế răn đe tham vọng làm quan của anh ta. Từ cách xử sự này: có thể thấy được Niên Canh Nghiêu sử dụng người tài không nặng về tình nghĩa, quan hệ mà trọng tài cán của họ.

Nhưng việc dùng người vẫn chỉ là đạc quyền của nhà vua, nên việc tuyển chọn người của Niên Canh Nghiêu đã làm cho vua Ung Chính hết sức lo lắng. Ông ta quyết định phải hạn chế, tiến tới thủ tiêu quyền lực của Niên Canh Nghiêu.

Năm Ung Chính thứ 3 (1725) quan tuần phủ Tử Châu Thái Đĩnh, trước đây bị Niên Canh Nghiêu vạch tội, cách chức rồi giao cho Giám trảm hậu giải về kinh xử tội. Nhưng được bộ Hình dâng tấu xin nên cứ tống giam vào ngục. Nay để tìm hiểu tính tình của Niên Canh Nghiêu ở vùng Tây Bắc, vua Ung Chính quyết định gặp người đã là kẻ thù, là địch thủ chính của Niên Canh Nghiêu.

Không cần nói cũng đã biết người đã bị Niên Canh Nghiêu vạch tội xử lý giao cho Giam trảm hậu nói những gì. Thái Đĩnh được gặp nhà Vua, hắn tâu trình với Vua vì trước đây để chống lại những hành vi phạm pháp của Niên Canh Nghiêu nên bị ông ta vu cáo hãm hại. Hắn còn kể tường tận, tỉ mỉ những việc làm sai trái tệ hại của Niên Canh Nghiêu. Vua Ung Chính sớm đã muốn tước đoạt quyền lực của Niên Canh Nghiêu nên những lời tố cáo của Thái Đĩnh rất hợp với ý ông ta. Vì vậy, vua Ung Chính hạ chiếu miễn tội cho Thái Đĩnh đồng thời cất nhắc hắn làm Tả đô Ngự sử.

Cách xử lý này, ngoài ý tưởng tượng của mọi người, còn cách giải thích việc này của vua Ung Chính thì đã nói rõ lòng dạ phức tạp của ông ta, đã ghét hận đại thần công cao lấn chủ. Trong chiếu dụ, ông ta chỉ rõ: “Thái Đĩnh do bị Niên Canh Nghiêu sàm tấu, nếu như xử tội Thái Đĩnh thì mọi người cho rằng trẫm nghe lời Niên Canh Nghiêu mà giết ông ta! Cái gốc quyền uy của Triều đình lại chọ đại thần thao túng, như vậy còn gọi gì là đạo lý nữa?” Đối với vụ án Thái Đĩnh mà nói, việc thực sự không phạm tội cũng không quan trọng, việc nhà vua và đại thần ai là người thao túng quyền lực mới là điều mấu chốt, mới quyết định xử lý án kiện như vậy. Đó chính là sự lô gích của vị Hoàng đế chuyên chính.

Thái Đĩnh được phong làm Tả đô Ngự sử chính là tín hiệu nguy hiểm đã phát ra đối với Niên Canh Nghiêu. Vua Ung Chính muốn dùng Thái Đĩnh để đối phó với Niên Canh Nghiêu. Ít lâu sau, người được Niên Canh Nghiêu tiến cử phong chức Tuần phủ Cam Túc là Hồ Kỳ Hằng về kinh, Ung Chính bèn mượn cớ cho rằng Hồ Kỳ Hằng là người rất bỉ ổi, sớ tâu trước đây sai lầm, hoang đường rồi cách chức ông ta. Tiếp đó lại ra lệnh quản thúc Niên Canh Nghiêu tại vùng Tây Bắc. Từ đó địa vị của Niên Canh Nghiêu ngày càng nguy khốn.

Tháng 4 năm Ung Chính thứ 3 (1725) Vua Ung Chính lại truyền dụ nghiêm khắc phê phán những việc làm của Niên Canh Nghiêu ở vùng Tây Bắc và cuối cùng quyết định: “Trước đây, Niên Canh Nghiêu không hồ đồ vô lý như vậy. Nay do cậy mình có công, cố ý lười nhác, đùa giỡn hoặc giết chóc quá nhiều vì vậy đầu óc đen tối, thù hận. Lẽ nào còn để ông ta giữ chức Tổng đốc nữa? Xét thấy ông ta vẫn còn có thể huấn luyện binh sĩ, giáng chức xuống làm Hàng Châu tướng quân”.

Giậu đổ bìm leo, sau khi Niên Canh Nghiêu thất sủng, các văn quan võ tướng, những người trước đây đã theo ông nhiều năm, nhiều lần được ông tiến cử trọng dụng nay vì bảo vệ tính mạng và chức sắc của mình, đã cắt đứt quan hệ với ông đều nhao nhao tố cáo Niên Canh Nghiêu. Tuần phủ Sơn Tây Y Đô Lập tố cáo Niên Canh Nghiêu tư lợi chiếm kho muối ăn, tự ý chiếm dụng và thu thuế muối. Phạm Thời Tiệp nguyên Tuần phủ Tây An đã tố cáo Niên Canh Nghiêu giết oan nhiều người lại tố cáo ông 5 việc về lừa bịp, bưng bít, tham lam vô độ, đồng thời đề nghị bắt hết đồng bọn và nghiêm trị. Vua Ung Chính hạ lệnh cho bộ Lại nghị xử. Bộ Lại kiến nghị cách chức Niên Canh Nghiêu nhưng bảo lưu tước vị của ông. Vua Ung Chính lập tức bác bỏ: “Niên Canh Nghiêu đã phạm rất nhiều trọng tội, dù có chặt đầu hắn cũng không thể làm nhẹ bớt tội lỗi đã qua”. Đồng thời thu hồi chức Thượng thư bộ Lại của Khoa Long Đa, lệnh cho bộ Lại xử tiếp. Để tỏ rõ ý của mình, vua Ung Chính cho triệu kiến Cửu Khanh, truyền dụ: “Niên Canh Nghiêu đã bất chấp được Vua ân sủng, đã lộng quyền hối lộ, tác oai tác phúc, cả gan lừa dối bưng bít, nhẫn tâm vong ân phụ nghĩa, hắn coi vương pháp như cỏ rác, trẫm sao có thể cố sức phí công nuôi dưỡng gian thần? Những kẻ thuộc hạ của hắn hoặc hy vọng hắn tiến cử, hoặc lo sợ hắn báo thù bức hại mà phải theo hắn dấn mãi vào con đường tội lỗi. Nay cần phải đập tan vây đảng, cải tà quy chính. Nếu ngoan cố không chịu hối cải sẽ định tội đảng nghịch”. Từ đó, ý đồ của Ung Chính đã quá rõ ràng, việc sống chết của Niên Canh Nghiêu đã được quyết định, còn cái gọi là xét xử của bộ Lại chỉ là lớp vỏ ngoài khoác lên thâm ý cá nhân của nhà Vua mà thôi.

Nhưng do lúc đó tin tức truyền đi rất chậm, Niên Canh Nghiêu không biết ý đồ của nhà Vua. Ông không cam chịu làm chức quan nhàn ở Hàng Châu, còn muốn làm được việc gì đó cho đất nước.

Ông đến Nghị Chính liền dâng sớ đề xuất: “Thần không dám ở Thiêm Tây lâu, lại không dám đến thẳng Triết Giang. Nay ở Nghị Chính, đây là đất tốt, tiện việc giao thông thuỷ bộ để giành thắng lợi. Xin chờ Thánh chỉ”. Sớ tấu này đã công khai việc ông cự tuyệt nhận chức Hàng Châu tướng quân.

Việc này làm cho Ung Chính càng thêm kiên định quyết tâm trừ bỏ ông, thế là vua Ung Chính ra lệnh bắt trị tội những kẻ tâm phúc dưới trướng của Niên Canh Nghiêu là Hồ Kỳ Hàng, Tang Thành Đỉnh. Tháng 7, thu hồi hết các đổ đã ban thưởng cho Niên Canh Nghiêu, cách chức tướng quân, sợ ông ở Kinh nhàn hạ bất ổn vẫn phái ông phải đi Hàng Châu.

Lúc này, các quan trong triều cũng dâng biểu đề nghị lấy tội bất trung bất pháp rồi xử cực hình đối với Niên Canh Nghiêu để làm gương. Vua Ung Chính lại kể lại tội của Niên Canh Nghiêu và chỉ rõ: Lời nói của quan lại trong triều là công luận khắp nơi (ngoài triều đình), nhưng việc thưởng phạt là đại sự quốc gia nên phải trưng cầu ý kiến của các quan. Nhà vua lệnh cho các tướng quân, Đốc phủ, Đề trấn, phải có ý kiến của mình và tấu lên rõ ràng. Thế là số thuộc hạ trước đây của Niên Canh Nghiêu như Nhạc Trung Kỳ, Điền Văn Kính, đều không ngồi yên và cùng nhau nhao nhao vạch tội Niên Canh Nghiêu, tạo thành một cục diện trong ngoài đồng lòng hãm hại Niên Canh Nghiêu.

Tháng 10, Vua Ung Chính đắc ý ra lệnh bắt Niên Canh Nghiêu đưa về kinh hỏi tội. Tháng 11, các vị tướng quân, đốc phủ, đề trấn nhao nhao dâng sớ đề nghị nhanh chóng chém đầu Niên Canh Nghiêu để giữ nghiêm phép nước. Vua Ung Chính lại đưa các tấu biểu này cho Pháp tư xử lý. Không lâu sau, Nghị chính đại thần, Tam pháp tư, Cửu Khanh cùng triều thần hợp tấu kể tội Niên Canh Nghiêu: Tội đại nghịch 5 điều, phạm 9 điều tội lừa dối bưng bít, phạm 16 điều tội tiếm quyền, phạm 13 điều tội ngông cuồng trái đạo, phạm 6 điều tội chuyên quyền tự tiện, phạm 6 điều tội đố kị, phạm 4 điều tội tàn nhẫn gian ác, phạm 18 điều tội tham nhũng, phạm 15 điều tội chiếm, đoạt hối lộ. Tổng cộng phạm 92 điều tội trạng, chiểu theo luật pháp phải xử tội cả 3 họ. Vua Ung Chính cuối cùng phán quyết: “Niên Canh Nghiêu mưu phản là sự thật, nhưng sự việc chưa công khai lộ dấu vết. Trẫm thể tình ông ta lập công ở Thanh Hai nên không nhẫn tâm xuống cực hình”. Thế là ra lệnh cho Niên Canh Nghiêu tự vẫn trong ngục. Cha Niên Canh Nghiêu là Niên Hà Linh, anh ca Niên Hy Nghiêu bị bãi quan, con trưởng của ông là Niên Phúc bị giết, các con khác của ông từ 15 tuổi trở lên đều phải trách phạt và lưu đày tới vùng biên cương xa xôi. Cả một thế hệ nhà công thần Niên Canh Nghiêu cuối cùng đã rơi vào thảm cảnh nhà tan cửa nát.

Năm Ung Chính thứ 5 (1727), Vua hồi tâm nghĩ lại, tự mình thay đổi quyết định, đại xá cho con cháu Niên Canh Nghiêu trở về để cho Niên Hà Linh chăm sóc dạy dỗ, ít lâu sau, Niên Hà Linh bị bệnh chết, vua Ung Chính hạ lệnh khôi phục lại chức quan cho ông và tổ chức lễ an táng cho ông.

Niên Canh Nghiêu đã nhiều lần lập công lớn ở vùng biên thuỳ tây bắc. Vì củng cố sự thống nhất đất nước, vì sự ổn định của ách thống trị của nhà Thanh ở vùng biên cương tây bắc ông đã lập nên những chiến công hiển hách. Nói ông là vị quan kiêu ngạo, phóng túng, dối trá hoặc tương tự như vậy còn có thể có, nhưng quyết không hề có sự thực mưu phản. Việc này vua Ung Chính cũng đã phải thừa nhận. Nhưng vì sao vua Ung Chính lại nhẫn tâm xuống tay như vậy? Còn bắt ông phải tự vẫn?

Theo người đời sau phân tích: Niên Canh Nghiêu đã cùng với Ung Chính thanh trị nội bộ trong cung đình để tranh giành ngôi vua. Do giúp được Ung Chính kế vị nên ông đã lập được công lao tột đỉnh, vì thế ông được sủng ái tin tưởng như người tâm phúc. Thế nhưng ông lại biết rõ việc Ung Chính thoán đoạt ngôi vị trong hậu cung. Việc này nếu lọt ra ngoài sẽ gây ảnh hưởng không gì cứu vãn được, việc này vẫn còn nguy hiểm đến cả tính mạng của Ung Chính. Vì vậy chỉ cần Niên Canh Nghiêu còn sống thì mối hiểm hoạ này vẫn còn đó.

Còn Niên Canh Nghiêu lại nhiều lần lập công lớn, tự cao tự đại càng làm cho Ung Chính cảm thấy hiểm hoạ ngày càng lớn dần lên. Từ đó dẫn đến có tính toán phải giết đi để diệt hậu hoạ. Thế rồi cái gọi là mưu phản được dựng lên, chính là cái tội khi dục vọng gia tăng thì không từ bất cứ thủ đoạn nào.

VN88